Giáo dục Việt Nam: Đổi mới tư duy cho ngành giáo dục trong cơ chế thị trường


Bài viết của: GS.TSKH Nguyễn-Đăng Hưng,
Giáo sư trưởng, trường ĐH Liège, Bỉ, E-mail: H.NguyenDang@ulg.ac.be
Chủ nhiệm các chương trình Cao học Bỉ&Việt tại ĐHBK Tp HCM và Hà Nội

Lời giới thiệu 

         Được mệnh danh là người "tiếp thị" chất xám Việt Nam (Báo Tiếp thị), người "chở" chất xám về Việt Nam (TGM), người “đi tìm” tiến sĩ cho Việt Nam (Vietnamnet) vì đã và đang thực hiện các chương trình đào tạo thạc sỹ Bỉ-Việt tại các Đại học Bách khoa Hà Nội và Tp HCM, chương trình 50 tiến sĩ bằng học bổng Quốc gia, là một nhà giáo, nhà khoa học giảng dạy ở những trường đại học danh tiếng trên thế giới, am hiểu về hệ thống giáo dục của các nước tiên tiến, nhưng cũng nắm bắt tường tận về nền giáo dục đào tạo của Việt Nam, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng đã có những đề nghị cụ thể sau đây về những vấn đề rất thời sự hiện nay cho ngành giáo dục ở nước ta.

            Trong kiến nghị vắn tắt "Mấy ý kiến về cải cách giáo dục" (đăng trên trang web "Hướng về giáo dục của GS Hoàng Tụy : http://www.ncst.ac.vn/hvgd/ và trong bài phỏng vấn dài trên báo chuyên san điện tử Người Viễn Xứ: 
(Http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/vandecuachungta/2004/04/59335/), tôi có đề cập đến việc cần có những bước đột phá trong việc cải cách hệ thống giáo dục Việt Nam bao gồm ba điểm sau đây:

1. Đổi mới tư duy về giáo dục.
2. Vì sự chệch hướng kéo dài hàng mấy thập kỷ, cần có quyết tâm, thời gian và  lộ trình trong việc cải tổ .
3. Để thực hiện cải tổ phải có người mới trong và ngoài nước, có thành phần đã từng cọ xát với các nền giáo dục của các nước tiên tiến tham gia vào ban đề xuất ý kiến, ban tổ chức, ban kiểm tra...
            
Xin giới thiệu quan điểm đổi mới tư duy về giáo dục của tác giả 



Đổi mới tư duy là thế nào?

1. Lãnh đạo và quản lý tốt phải đồng nghĩa với phục vụ tốt
            Đổi mới tư duy, trước hết là đoạn tuyệt với lề lối tập trung quan liêu, nói nôm na là thói quen ôm đồm, bao biện, cái gì cũng muốn nắm, cái gì cũng muốn quản lý mà không có khả năng, không có tài lực, không có phương pháp, gây trì trệ, nhũng nhiễu cho nền giáo dục quốc dân … . Lãnh đạo và quản lý tốt phải đồng nghĩa với phục vụ tốt. Phục vụ muốn có hiệu quả thì phải mở cơ chế cho thật thoáng để tăng cường khả năng phục vụ. Đây là nguyên tắc làm việc của các nước tiên tiến có trình độ phát triển cao.

2 Cần nhanh chóng trao quyền tự quản cho các trường đại học
            Chẳng hạn, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cần nhanh chóng trao quyền tự quản cho các trường đại học, bắt đầu bằng những trường trọng điểm, những trường lớn. Quyền tự quản này bao gồm quyền tuyển sinh, cấp bằng, quản lý và bổ nhiệm nhân sự, tổ chức và kế hoạch việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học… Bộ chỉ dừng lại ở quản lý khung: ngân sách (phần nhà nuớc rót về trường như thế dĩ nhiên gián tiếp chi phối việc bổ nhiệm nhân sự), học trình quốc gia (bất cứ trường nào cũng phải tuân thủ chương trình học do Bộ đề ra), chế độ (mức lương tối thiểu, chức danh, học hàm, tài trợ những hướng phát triển trọng điểm, cho bổng học sinh nghèo, hỗ trợ học sinh vùng sâu vùng xa…), thanh tra giám sát, hiệp thương hợp tác quốc tế trên bình diện vĩ mô, vân vân…
Chẳng hạn, Bộ GD&ĐT cần giao lại việc xuất bản sách giáo khoa cho một cơ quan khác độc lập với Bộ  (Tổng cục xuất bản sách giáo khoa ?). Bộ chỉ giữ lại vai trò giám sát.

3. Trở về thực học để đào tạo người có thực tài
            Tư duy giáo dục hiện nay chạy theo thành tích, theo con số, theo hư danh. Chính tư duy có "tính phong trào “ này đã dẫn đến tâm lý sính đại học, coi thường cao đẳng, sính bằng cấp. Mấy năm gần đây tại các đại học, các viện nghiên cứu lại đào tạo tràn lan, ông thạc sĩ này ông tiến sĩ nọ có danh nhưng không có thực chất.  Đào tạo cán bộ giảng dạy cao cấp mà không cẩn thận thì sẽ có tác hại lâu dài đến hàng chục thế hệ.
           Phải trở về thực học để đào tạo người có thực tài. Ta phải trở về với quan điểm truyền thống của dân tộc Việt : Nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Bởi vì người có bằng tiến sĩ chưa chắc đã là người có thực tài! Có nhiều tiến sĩ hiện nay tuy được đào tạo bài bản nhưng lại phải đang “hành nghề khác”, hay không nghiên cứu thêm, chỉ làm quản lý. Như vậy thì rất phí phạm vì chẳng đóng góp được gì cho khoa học, cho giáo dục. Cũng có những tiến sĩ chỉ nghiên cứu mà không tham gia giáo dục đào tạo thì những gì mình nghiên cứu được cũng sẽ bị lãng phí.

4 Cần phân luồng, phân tầng trong việc tổ chức giáo dục
            Ở đây tôi tâm đắc với ý kiến là cần phân luồng, phân tầng trong việc học. Và việc này cần bắt đầu từ trung học. Tôi thấy tại Việt Nam còn quá ít các trường cao đẳng, trường chuyên nghề, đặc biệt các trường kỹ thuật công nghệ với thời gian đào tạo ngắn hạn. Tôi biết hiện nay tâm lý phụ huynh là coi thường cao đẳng. Nhưng tâm lý này sẽ khắc phục không khó nếu các trường cao đẳng gắn bó với các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo, có cơ chế liên thông rõ ràng minh bạch, nếu các trường tăm tiếng có quyết tâm tham gia thực hiện cơ chế này. Phụ huynh nào lại chả muốn con mình nhanh chóng có việc làm giúp kinh tế gia đình, nếu con em mình sau vài năm cao đẳng, năng khiếu được lộ rõ qua kết quả cụ thể, được xét tuyển vào các trường lớn để đi xa hơn.

5. Mềm đầu vào và cứng đầu ra
             Tôi cũng đồng ý với ý kiến là các trường đại học nên mềm đầu vào và cứng đầu ra, không tổ chức đào tạo như cái ống, mà đào tạo theo hình chóp. 
             Tại các nước phương Tây họ áp dụng nguyên tắc chủ đạo sau đây: "Chỉ cấp bằng cho những người đạt trình độ". Họ quan niệm là cấp bằng cho người không đạt trình độ là chẳng những giúp tay làm hư hại xã hội mà trước tiên làm hư hại chính người được cấp bằng.  Bởi vậy thông thường đầu vào thì đông nhưng đầu ra thì không nhiều. Học viên hai năm đầu bị đánh rớt rất đông, cấm thi lại quá bốn lần. Như vậy, các em có điều kiện nhanh chóng đổi ngành, chuyển qua cao đẳng, cho phù hợp với năng khiếu của mình, không mất thời gian gây hao tốn cho xã hội và gia đình.
             Quan điểm này có hệ luận là không cần phải tổ chức thi tuyển đại học nặng nề gây bất bình trong xã hội như hiện nay tại Việt Nam mà chỉ cần xét tuyển nhẹ nhàng qua quá trình học vấn cấp tú tài. Nếu cần xác định rõ hơn về trình độ thì nên tổ chức phỏng vấn trực tiếp để loại bỏ những học viên có hồ sơ với độ tin cậy thấp.
            Hệ luận này kéo theo một hệ luận khác là phải tổ chức lại một cách nghiêm chỉnh hơn các kỳ thi tú tài ở trung học. Thi tú tài là xác định trình độ năng khiếu bậc trung học của học sinh. Việc xác định này cần được tổ chức chu đáo và đồng khắp trong đó tính khách quan và công bình phải được đảm bảo... Phải xóa bỏ tận gốc thói quen mà tôi hay bắt gặp tại Việt Nam: Ai cũng xuất sắc, ai cũng tiên tiến, ai cũng 10/10.  Thói quen này có lẽ phát xuất từ chỗ thiếu tự tin, ngại chịu trách nhiệm, không dám đánh rớt. Báo chí trong nước đã bao lần báo động việc này mà tôi chưa thấy biện pháp cụ thể khắc phục!

6. Không lẫn lộn giữa giáo dục và tuyên truyền 
             Trong quá khứ, ta hay nói đến giáo dục tuyên truyền. Trong thời kháng chiến thì điều này là phù hợp, chính xác. Bởi buổi ấy đất nước còn bị trị, thành phần có ý thức trong các tổ chức cách mạng chỉ là thiểu số. Vấn đề giáo dục và tuyên truyền cho quần chúng theo đúng đường lối, lý tưởng cách mạng, để huy động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, đi kháng chiến cứu nước cứu nhà là yêu cầu hiển nhiên, là tối cần thiết vì đây là sinh mệnh của dân tộc. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập, nếu ta tiếp tục có tư duy lẫn lộn giữa giáo dục và tuyên truyền thì ta không chóng thì chầy sẽ đi đến ngõ cụt của tri thức, đến tụt hậu của tư duy.
             Bởi vì tuyên truyền, mang tính tình thế, là hướng đối tượng đi theo đường lối, chính sách của ta. Còn giáo dục đúng nghĩa mang tính nhân văn, lâu dài và phổ quát, lấy con người làm gốc, là phải làm sao tạo điều kiện để đối tượng có hiểu biết để họ hành sự như một thể độc lập, đủ khả năng thích ứng với sự thay đổi vô cùng của bối cảnh, của cuộc sống, của sự việc. Đó là điều tất yếu của cuộc cạnh tranh sinh tồn trong xu thế hòa nhập.
Giáo dục ở các nước tiên tiến luôn luôn đòi hỏi khả năng trao đổi, thảo luận, tinh thần phê phán phản biện. Bởi vì phải như thế học viên mới có óc sáng tạo, tự mình phát hiện cái mới, cái hay rồi hành xử theo điều kiện cụ thể.  Không độc lập trong suy nghĩ thì không cách gì cải tiến công việc, cải tạo cuộc sống, điều kiện của mọi phát triển bền vững.
             Cho nên các nước phát triển, họ rất tối kỵ và không bao giờ dùng từ tuyên truyền đi đôi với từ giáo dục. 

1.7. Trả lại cho nhà trường chức năng "thế nhân" của nó
             Để thoát ra khỏi khủng hoảng hiện nay đã đến độ báo động, ta nên trả lại cho nhà trường chức năng "thế nhân" của nó (ở đây tôi muốn dịch chữ "laïcité" của tiếng Pháp). Nhà trường chân chính không thể là chỗ đào tạo ra những tín đồ, những chức sắc, những người chỉ biết vâng vâng dạ dạ, lặp đi lặp lại ngày này qua tháng khác những công thức vô bổ!
             Đổi mới tư duy còn cần trở về với bản sắc chân chính của dân tộc và những giá trị trường cửu của truyền thống phương Đông.
             Đổi mới tư duy cần đề cao nhân cách, không chỉ dừng lại ở nhân cách của các nhà cách mạng, của các liệt sỹ, mà còn là nhân cách của các nhà văn hóa, nhà khoa học, nhà phát minh, nhà thám hiểm, nhà giáo, nhà nghệ sỹ, nhà doanh nghiệp, nhà hoạt động từ thiện..., tóm lại những người tài, người hiền về mọi mặt của dân tộc và của thế giới...
             Tôi rất tâm đắc với ý kiến sau đây trong bản kiến nghị do GS Hoàng Tụy và các đồng nghiệp tóm lược và đề bạt:
(Nhà trường) "Cần coi trọng rèn luyện các phẩm chất đạo đức cơ bản của con người hiện đại có cá tính nhưng bao dung, biết giao tiếp và hợp tác, biết làm việc có hiệu quả, có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, không ngại đương đầu với thách thức, khó khăn, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì mục đích lớn, và nhất là trung thực và có đầu óc sáng tạo, là những đức tính tối cần thiết trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời cần quan tâm đến giáo dục thẩm mỹ, giáo dục cảm xúc, đào tạo toàn diện con người có tâm hồn và thể chất khoẻ mạnh".

8. Tổ chức giáo dục cần hướng tới tri thức quốc tế
            Đổi mới tư duy cần hướng nền giáo dục và đào tạo Việt Nam đến những chân trời mới của tri thức thế giới đa cực ngày nay. Yếu tố quốc tế phải luôn luôn được coi trọng hàng đầu vì xu thế hòa nhập toàn cầu, cạnh tranh quyết liệt ở thương trường năm châu, không cho phép sự tồn tại của tư duy cục bộ, bản vị, xơ cứng.
            Hướng tới tri thức thế giới trước hết là phải giỏi ngoại ngữ. Một nước trung bình như Việt Nam để nuôi dưỡng hiểu biết ngang tầm thế giới cần phải thông thạo mỗi người hai ngoại ngữ. Tôi muốn nhấn mạnh ở chữ thông thạo chứ hiểu biết sơ sài như trình độ các sinh viên tốt nghiệp đại học hiện nay tại Việt Nam thì chưa thấm vào đâu. Muốn vậy cần tổ chức dạy ngoại ngữ ngay ở cấp tiểu học. Việc tiếp thu ngoại ngữ ở cấp trung học sẽ chậm hơn, lên đến đại học thi đã quá trễ.
            Hướng tới tri thức thế giới hiện nay ta đã có một phương tiện hữu hiệu vô song : Internet. Việc mở rộng sử dụng Internet, công nghệ thông tin là khâu quyết định cho việc cập nhập tri thức mới mẻ, hiện đại... Vấn đề ở đây là tổ chức việc mở rộng ở tầm mức quốc gia vì điều kiện kinh tế còn giới hạn của ta.  Tôi lấy làm lạ là Bộ GD&ĐT đã làm rất ít cho việc này... Thí dụ các ĐH Việt Nam đang ở trong tình trạng vô cùng thiếu thốn tài liệu, sách, tạp chí khoa học cần thiết cho việc nghiên cứu. Lẽ ra Bộ GD&ĐT, theo chân các nước tiên tiến, đã từ lâu, thương lượng với các nhà xuất bản để sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam, thông qua mật khẩu, có thể vào các trang web của các nhà xuất bản tiếng tăm, tham khảo những tài liệu đã xuất bản. Các sinh viên của chúng tôi đưa sang châu Âu đều được hưởng miễn phí dịch vụ này. Và họ đã bảo với tôi : Ngồi tại Bỉ nghiên cứu một ngày bằng một tuần ở Việt Nam

9. Yếu tố quốc tế cần trở thành tiêu chí căn bản trong việc đánh giá chất lượng các đại học, các thành viên, các giáo sư, các nghiên cứu sinh...
            Thí dụ các đề mục "có công trình công bố báo quốc tế""có tham dự hội nghị quốc tế""được mời đi thuyết trình ở các đại học quốc tế"phải trở thành tiêu chí không thể không có của việc xác định chất lượng các giáo sư, của việc trao tặng chức danh giáo sư. Ở Bỉ một công trình công bố trong tạp chí quốc tế có ban biên tập quốc tế thẩm định được chấm ba điểm. Một công trình công bố trong tạp chí quốc nội chỉ được một điểm mà thôi. Cũng xin mở dấu ngoặc là chỉ những công trình công bố cách đây không quá 5 năm mới có giá trị! Thử hỏi các giáo trình đang được giảng dạy tại Việt Nam ở các ĐH đã viết ra được bao nhiêu năm rồi ?
            Với đà tăng trưởng hiện nay, Bộ GD&ĐT hay Bộ Khoa học Môi trường dần dần cần có quỹ để tài trợ các nhà nghiên cứu có công trình công bố tại các Hội nghị quốc tế.
            Đây là tiền đầu tư cho chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của các nhà khoa học. Đây cũng là tiền đầu tư cho vai trò khoa học của Việt Nam trên trường quốc tế. Là nhà khoa học tại Bỉ, tôi may mắn hoặc được mời, hoặc được chánh phủ Bỉ tài trợ, tạo điều kiện cho tôi tham dự nhiều lần (trung bình mỗi năm hai lần!) các hội nghị khoa học quốc tế. Điều tôi rất buồn là không thấy bóng dáng người Việt Nam đến từ Việt Nam ở những dịp này. Nếu có thì chỉ là những Việt kiều công tác tại các ĐH Âu, Mỹ, Nhật, Úc... Tình trạng này đã kéo dài trên ba thập kỷ rồi. Trong những năm 70 cũng rất hiếm có người Trung Quốc đến từ Trung Quốc. Nhưng tháng 9/2004 vừa qua, được mời đi thuyết trình tại Hội Nghị Toàn cầu lần thứ 6 về Cơ học tính toán, được Trung Quốc đăng cai tổ chức tại Bắc kinh, tôi đã là nhân chứng của sự đổi thay vượt bậc. Trong tổng số 1200 công bố khoa học, Trung Quốc đã chiếm gần 400 bài, Mỹ và Nhật gần 300 bài, Hàn quốc gần 50 bài... Còn Việt Nam ? Chỉ có 2 bài, một của một nghiên cứu sinh sắp trình tiến sỹ do tôi hướng dẫn và một của một đồng nghiệp tham gia chương trình đào tạo thạc sỹ MCMC của ĐH Liège, Bỉ, đặt tại ĐH Bách khoa Hà Nội!
            Đánh giá chất lượng một luận án tiến sĩ (TS) cũng cần có yếu tố quốc tế. Tại châu Âu, hội đồng giám khảo một luận án TS hợp lệ phải có ít nhất một giáo sư quốc tế (đến từ một nước khác) và một giáo sư quốc nội đến từ một đại học khác. Nếu là luận án khoa học công nghệ thì bắt buộc phải có đại diện của doanh nghiệp có công nghệ liên đới. Ngoài ra, việc thâu nhận giảng viên mới ở các ĐH cũng phải theo một tiêu chí đảm bảo được tính mới mẻ, tính quốc tế trong khâu nhân sự. Phải hơn 50% là người đã bảo vệ bằng TS từ các đại học khác với đại học sở tại. Tôi tự hỏi các đại học Việt Nam chừng nào mới so sánh được với các đại học quốc tế khi thói “cha truyền con nối” đang hiện hành khá phổ biến !

10. Cần có kế hoạch trong việc đào tạo nhân tài bằng ngân sách nhà nước.
          Việc đào tạo nhân tài, gởi người đi sửa soạn bằng thạc sỹ hay chuẩn bị luận án TS ở hải ngoại bằng ngân sách nhà nước cũng cần có kế hoạch chiến lược dài hạn. Theo chỗ tôi biết hiện nay các bộ chưa nghỉ tới, ngoài những con số nặng nề duy ý chí ở nơi này chỗ nọ!  Không có kế hoạch và nhất là không tham khảo nghiên cứu nghiêm túc ban đầu, tôi e sẽ không đạt hiểu quả nếu không nói sẽ lại lãng phí thêm.
           Thí dụ gởi sinh viên đi làm TS về các ngành kỹ thuật công nghệ ta nên định hướng, chọn nước, chọn trường cho phù hợp, cho xứng với vốn liếng bỏ ra nhất là từ công quỹ của một nước nghèo như nước ta. Chưa có liên lạc được thì nên nhờ các nhà khoa học Việt kiều giới thiệu. Ta phải học trực tiếp ở những nước, những trường có chất lượng nổi tiếng, có học thuật tiên tiến, và như vậy cho từng ngành từng môn. Thí dụ công nghệ thông tin nên đi Mỹ, công nghệ hàng không nên đi Pháp hay Mỹ, công nghệ điện tử nên đi Nhật, công nghệ đóng tàu nên đi Hàn quốc... Dĩ nhiên là còn phải chọn đúng trường, đúng thầy, đúng phòng thí nghiệm... Tránh việc tốn tiền, tốn công mà chỉ đến nước thứ hai, thứ ba, không học trực tiếp mà học lỏm, học những kỹ thuật quá đát, được hướng dẫn bởi những thầy loại B, đã cằn cỗi, lỗi thời! Ngoài ra phải có phương pháp, cách tổ chức để hạn chế tối đa rủi ro, nạn chảy máu chất xám ...

0 Để lại nhận xét: